Trải qua gần 40 năm đổi mới, sự phát triển của Việt Nam trên mọi lĩnh vực nói chung và nông nghiệp, kinh tế nông thôn, nông dân nói riêng đã có bước phát triển nhảy vọt về cả ba khía cạnh: kinh tế, xã hội và môi trường. Tuy nhiên, nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân Việt Nam cũng phải đối mặt với khó khăn, thách thức đan xen. Để phát triển bền vững nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số, đô thị hóa và biến đổi khí hậu, cần thực hiện các giải pháp đồng bộ.
![]() |
| Phân loại bưởi xuất khẩu ở đồng bằng sông Cửu Long _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn |
Thực trạng phát triển bền vững về xã hội của nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân
Bảo đảm an ninh lương thực, góp phần quan trọng ổn định xã hội chính là thành tựu lớn nhất của ngành nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân nước ta thời gian qua. Từ một nước thiếu lương thực, Việt Nam trở thành quốc gia bền vững về an ninh lương thực; tiếp tục góp phần quan trọng bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu với việc hằng năm xuất khẩu nhiều mặt hàng lương thực, thực phẩm (trong đó, mỗi năm xuất khẩu trên 6 triệu tấn gạo, cung cấp khoảng 12 - 15% lượng gạo xuất khẩu trên thế giới)(1). Sản lượng lương thực bình quân đầu người có xu hướng tăng qua các năm cho thấy sự sẵn có và sự đa dạng thực phẩm của Việt Nam ngày càng tốt và phong phú hơn.
Về khía cạnh xã hội hiện đại, FAO không chỉ quan tâm đến nhu cầu lương thực cơ bản, mà còn quan tâm đến khả năng chi trả cho một chế độ ăn uống lành mạnh. Về chỉ tiêu thống kê này, Việt Nam đang ở vị trí cao hơn rất nhiều so với các nước khác trong khu vực Đông Nam Á và trên thế giới (Xem hình 1). Tỷ lệ dân số không đủ khả năng chi trả cho một chế độ ăn uống lành mạnh thấp, khoảng 21%.
Hình 1. Tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp trong tổng lực lượng lao động của Việt Nam
![]() |
Nguồn: FAO: FAOSTAT: Cost and Affordability of a Healthy Diet (Tạm dịch: Chi phí và khả năng chi trả của chế độ ăn uống lành mạnh), https://www.fao.org/faostat/en/#data/CAHD
Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch đáng kể từ khu vực nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Trong những năm vừa qua, thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 với mục tiêu phát triển kinh tế Việt Nam theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, cơ cấu lao động có sự chuyển dịch lớn từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, lao động nông nghiệp có xu hướng giảm cả về số lượng và tỷ trọng trong tổng lực lượng lao động xã hội (Xem hình 2). Điều này cho thấy phân bố lao động đã bền vững hơn, góp phần tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động nông thôn. Nhờ áp dụng thành tựu của khoa học - công nghệ vào sản xuất, sản xuất nông nghiệp không còn là ngành quá thâm dụng lao động.
Hình 2: Tốc độ tăng trưởng GDP ngành nông nghiệp giai đoạn 2010 - 2023
![]() |
Nguồn: Tổng cục Thống kê: Thông cáo báo chí về kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ năm 2020, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/06/thong-cao-bao-chi-ve-ket-qua-dieu-tra-nong-thon-nong-nghiep-giua-ky-nam-2020
Kinh tế nông thôn được phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng vẫn giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Số cơ sở sản xuất, kinh doanh lĩnh vực ngành, nghề nông thôn tăng bình quân 9 - 10%/năm, đến năm 2020 có trên 817.000 cơ sở. Nhiều nghề, làng nghề từng bị mai một đang dần được phục hồi và phát triển, tạo việc làm cho trên 2,3 triệu người lao động. Doanh thu từ hoạt động ngành, nghề nông thôn đạt trên 236.000 tỷ đồng. Đến năm 2020, cả nước có 165 nghề truyền thống; 1.951 làng nghề (tăng 300 làng nghề so với năm 2011), trong đó 1.062 làng nghề và 889 làng truyền thống đã được công nhận. Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) ra đời từ năm 2018, được tổ chức triển khai rộng khắp ở 63 tỉnh, thành phố, bước đầu đã đạt được kết quả nhất định; phát huy được nhiều sản phẩm lợi thế của địa phương, vai trò cộng đồng được nâng cao; đồng thời, thúc đẩy sản xuất theo chuỗi giá trị gắn với vai trò tích cực của HTX và doanh nghiệp. Tỷ lệ chủ thể OCOP là nữ chiếm 39%, cao hơn tỷ lệ nữ giữ vai trò điều hành doanh nghiệp của Việt Nam (25%)(2).
Thu nhập bình quân đầu người/năm ở nông thôn tăng nhanh hơn tốc độ tăng thu nhập của người dân đô thị. Thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn tăng 3,36 lần, từ mức 12,8 triệu đồng năm 2010 lên khoảng 43 triệu đồng năm 2020 và tăng gần 1,9 lần so với năm 2015, vượt mục tiêu đề ra cho đến năm 2020. Chênh lệch thu nhập bình quân của người lao động ở thành thị so với nông thôn ngày càng giảm, đến năm 2020 là 1,59 lần (Xem hình 3); hệ số Gini ở mức trung bình.
Hình 3. Chênh lệch thu nhập bình quân/tháng giữa người lao động ở nông thôn và thành thị
![]() |
Nguồn: Tổng cục Thống kê: Thông cáo báo chí về kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ năm 2020, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/06/thong-cao-bao-chi-ve-ket-qua-dieu-tra-nong-thon-nong-nghiep-giua-ky-nam-2020
Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều ở nông thôn giảm nhanh, bình quân giảm khoảng 1,5%/năm và đến hết năm 2020 còn 7,1%. Tỷ lệ hộ có mức độ thiếu hụt về các dịch vụ xã hội cơ bản cũng giảm (Xem hình 4).
Hình 4. Mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản chung cả nước năm 2020
![]() |
Xem: Tổng cục Thống kê: Kết quả sơ bộ khảo sát mức sống dân cư 2020, Hà Nội, 2021
Bên cạnh những kết quả phát triển về mặt xã hội nêu trên, còn nhiều hạn chế ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững về xã hội của nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân nước ta, như 1- Cơ cấu lao động trong nội bộ ngành nông nghiệp phân bố không đồng đều ở các tiểu ngành và ở các vùng kinh tế; 2- Năng suất lao động ngành nông nghiệp có xu hướng tăng nhanh qua các năm, nhưng vẫn thấp hơn năng suất lao động trung bình của cả nước và thấp hơn so với các ngành, nghề khác; 3- Thu nhập của người lao động từ các hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản có xu hướng suy giảm cả về số tương đối và tuyệt đối; 4- Khả năng kết nối thông tin khu vực nông thôn thấp hơn so với khu vực đô thị...
Thực trạng phát triển bền vững về môi trường của nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nông dân
Phát triển nông nghiệp bền vững về môi trường đã được triển khai lồng ghép trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh trên tất cả lĩnh vực từ nông, lâm nghiệp đến chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản.
Các quy trình sản xuất xanh, thân thiện với môi trường được áp dụng. Đầu năm 2022, cả nước có khoảng 240.000 ha canh tác hữu cơ, với sự tham gia của gần 20.000 người lao động tại 46 tỉnh, thành phố. Bên cạnh đó, có khoảng 160 doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh nông nghiệp hữu cơ với kim ngạch xuất khẩu hằng năm đạt khoảng 335 triệu USD (tăng gần 15 lần so với năm 2010), đứng thứ 8 trong 10 nước có diện tích nông nghiệp hữu cơ lớn nhất châu Á. Sau 10 năm, diện tích canh tác nông nghiệp hữu cơ của nước ta tăng trên 223.000ha. Sản phẩm hữu cơ được tiêu thụ trong nước và xuất khẩu đến nhiều thị trường quốc tế lớn(3).
Công tác thu gom bao bì thuốc bảo vệ thực vật được đặc biệt quan tâm. Theo báo cáo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2021 đã có 48 tỉnh, thành phố có văn bản chỉ đạo về hướng dẫn thu gom, vận chuyển và xử lý bao gói thuốc bảo vệ thực vật sau sử dụng; 42 tỉnh, thành phố có 57.910 bể thu gom (nổi bật nh
- Đánh giá
- Bình luận facebook
- Học viện Nông nghiệp Việt Nam công bố điểm chuẩn 2025 - 2 tháng trước
- Chính sách miễn, hỗ trợ học phí thể hiện rõ tính nhân văn và sự ưu việt của chế độ - 5 tháng trước
- Hơn 60 doanh nghiệp săn đón sinh viên Học viện Nông nghiệp Việt Nam - 5 tháng trước
- Học viện Nông nghiệp Việt Nam tổ chức Festival hoa - cây cảnh VNUA 2025, ra mắt sàn đấu giá hoa, cây cảnh - 5 tháng trước
- Hơn 100 nhà khoa học chia sẻ về đổi mới công nghệ chọn tạo giống cây trồng - 5 tháng trước
- Hơn 6.000 sinh viên tham gia Ngày hội việc làm và kết nối doanh nghiệp năm 2025 của Học viện Nông nghiệp Việt Nam - 5 tháng trước





